Tiểu sử Biligtü Khan

Ái Du Thức Lý Đạt Lạp là Hoàng trưởng tử của Nguyên Huệ Tông, mẹ là Đệ nhị Hoàng hậu Kỳ thị. Thời niên thiếu năm 10 tuổi, ông được vua cha cho đến học tại nhà của thừa tướng Thoát Thoát (脱脱; Toktog), được giáo dục nền văn hóa Trung Quốc từ nhỏ.

Đệ nhất Hoàng hậu của Huệ Tông, Bá Nhan Hốt Đô Hoằng Cát Lạt thị sinh được một con trai, nhưng vị hoàng tử chết yểu năm 2 tuổi. Huệ Tông muốn phong Ái Du Thức Lý Đạt Lạp làm Hoàng thái tử, song không được hội đồng Na Nhan Mông Cổ đồng thuận vì xuất thân của mẹ ông thấp kém (Kỳ thị từng là cống nữ Cao Ly được tiến cống tới triều Nguyên làm vợ lẽ).

Điều này thay đổi sau khi gia tộc của Bá Nhan Hốt Đô bị thanh trừng và tướng Bá Nhan qua đời. Kỳ thị được phong làm Đệ nhị Hoàng hậu, cùng con trai chính thức được triều đình Mông Cổ thừa nhận. Năm 1353, dưới sự thuyết phục của Kỳ Hoàng hậu, Huệ Tông định phong ông làm người kế vị.

Tuy nhiên, phe đối lập với ông, thừa tướng Thoát Thoát đã ngăn chặn và làm trì hoãn việc này rất lâu sau đó. Kỳ hậu muốn nhanh chóng đưa con trai lên ngôi Thái tử, đã liên thủ một người học trò cũ của Thoát Thoát là Hama, cáo buộc Thoát Thoát tội tham nhũng và những chính lệnh hà khắc mà ông này đã áp dụng trong thời gian trấn áp quân Khăn đỏ năm 1354. Âm mưu này đã khiến cho Thoát Thoát dù từng có công trạng trấn áp quân khởi nghĩa, cũng bị phế và lưu đày tại Hoài Nam.

Sau khi Thoát Thoát bị phế khỏi chức thừa tướng, Hama được cất nhắc lên chức này, quyền lực dần tập trung vào tay ông ta. Hama dự định dùng ảnh hưởng của mình để đưa Ái Du Thức Lý Đạt Lạp lên ngôi Thái tử. Ngày tháng vinh quang của Hama không kéo dài được lâu thì âm mưu năm xưa của ông đối với Thoát Thoát bị phát giác vào năm 1356. Hama bị bãi chức và lưu đày, trước khi bị thắt cổ chết. Ái Du Thức Lý Đạt Lạp may mắn không bị truy tội trong vụ việc lần này.

Năm 1353, trong khi ông được sách phong Hoàng thái tử, biến loạn đã xảy ra trong cung đình giữa phe ủng hộ và phe chống đối Thái tử. Năm 1360, Kỳ hậu và Thái tử cố gắng thuyết phục thừa tướng đương thời là Tai-ping, để ông dâng tấu xin Huệ Tông nhường ngôi cho Thái tử. Tai-ping đã không đồng ý với đề nghị của mẹ con Thái tử, kết cục bị ép từ chức, phe cánh của ông thì bị đầu độc.

Năm 1364, một tướng quân của phe đối lập là Bolad-Temür đem quân xâm chiếm kinh thành. Trước tình hình nguy cấp, Huệ Tông triệu Ái Du Thức Lý Đạt Lạp từ đất phong về kinh đô. Ông khước từ mệnh lệnh của Huệ Tông vì cảm thấy lực lượng của mình chưa đủ để áp chế quân đội của Bột La Thiếp Mộc Nhi. Do đó, thay vì về kinh, ông chạy đến chỗ của đại tướng Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi (tên Hán là Vương Bảo Bảo).

Biết tin Thái tử đang gầy dựng lực lượng của mình, Bột La đã bắt Kỳ hậu ra lệnh triệu con trai về kinh thành. Âm mưu của Bột La chưa được thực hiện thì ông bị ám sát bởi một thành viên hoàng tộc được bí mật ra lệnh bởi Huệ Tông. Sau đó, Vương Bảo Bảo đánh bại quân đội của Bột La vào năm 1365. Nhân chiến thắng này, Ái Du Thức Lý Đạt Lạp lại ép Vương Bảo Bảo yêu cầu hoàng đế thoái vị. Huệ Tông không thuận theo, bù lại, bổ nhiệm Thái tử một chức vụ trong quân đội. Vương Bảo Bảo không đồng tình với hành động của Huệ Tông nên bị bãi chức.

Năm 1368, nhà Nguyên hoàn toàn bị đánh bại bởi quân khởi nghĩa của Chu Nguyên Chương, Huệ Tông đã phải từ bỏ Đại Đô để tháo chạy đến Thượng Đô, tiếp tục nắm quyền cai trị những vùng lãnh thổ còn sót lại ở phía Bắc của triều Nguyên, tức Bắc Nguyên.

Hai năm sau, Huệ Tông băng hà trong lúc quân Minh thực hiện cuộc tiến công lên phía bắc, con trai của ông là Maidarbal bị bắt làm tù binh. Sau đó, Maidarbal đã trốn thoát an toàn về Karakorum, Ái Du Thức Lý Đạt Lạp chính thức đăng cơ làm Khả hãn Mông Cổ, tước vị là Tất Lý Khắc Đồ hãn (Biligtü Khan).